Trong nhiệm kỳ 2021-2025, Chính phủ đã điều hành linh hoạt, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định để các doanh nghiệp (DN) yên tâm sản xuất, kinh doanh. Các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí… cũng thể hiện rõ sự đồng hành của Chính phủ, góp phần hỗ trợ DN vượt qua khó khăn, tăng nguồn lực đầu tư và mở rộng sản xuất.

Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, Chi nhánh Khu vực 2 

Nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn tới

Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, Chi nhánh Khu vực 2 cho biết,giai đoạn 2021-2025 là giai đoạn gặp nhiều khó khăn thách thức. Trong đó, đại dịch lịch sử mang tên COVID-19; xung đột địa chính trị và cạnh tranh thương mại toàn cầu, là những khó khăn thách thức rất lớn, có tác động ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Đặt trong bối cảnh đó và những khó khăn nội tại từ nền kinh tế, những kết quả đạt được toàn diện trên tất cả các lĩnh vực trong giai đoạn vừa qua mang đậm dấu ấn nhiệm kỳ và là bài học kinh nghiệm quý báu trong quản trị quốc gia, trong xử lý những tình huống khó khăn, thách thức phát sinh do thiên tai, dịch bệnh (chưa có tiền lệ), cũng như những tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô…

Theo đó, nền kinh tế tăng trưởng và phát triển theo xu hướng tích cực, gắn với chất lượng tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội; khai thác và sử dụng hiệu quả các yếu tố nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực chính sách cho tăng trưởng, phát huy các yếu tố động lực tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển hạ tầng và đổi mới mô hình quản lý chính quyền địa phương 2 cấp, làm nền tảng để phát triển nền kinh tế đất nước trong giai đoạn tới, với mục tiêu cao hơn, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Chính phủ luôn đồng hành cùng doanh nghiệp

Đánh giá về báo cáo kinh tế – xã hội do Thủ tướng Chính phủ trình bày tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, ông Lư Nguyễn Xuân Vũ, Chủ tịch Hội Doanh nhân Sài Gòn cho biết: “Tôi ấn tượng với việc trong giai đoạn 2021-2025, dù gặp nhiều thách thức nhưng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần nhiệm kỳ trước, vượt xa mục tiêu 8,3 triệu tỷ đồng; trong khi miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí… khoảng 1,1 triệu tỷ đồng; tăng thu, tiết kiệm chi 1,57 triệu tỷ đồng.

Các chỉ tiêu này cho thấy Chính phủ đã điều hành linh hoạt, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định để các DN yên tâm sản xuất kinh doanh. Các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí… cũng thể hiện rõ sự đồng hành của Chính phủ, góp phần hỗ trợ DN vượt qua khó khăn, tăng nguồn lực đầu tư và mở rộng sản xuất.

Ông Lư Nguyễn Xuân Vũ, Chủ tịch Hội Doanh nhân Sài Gòn

Cùng với đó, việc thu ngân sách ấn tượng, vượt xa chỉ tiêu đề ra ( đạt 9,6 triệu tỷ đồng, vượt mục tiêu 8,3 triệu tỷ đồng) cũng giúp Chính phủ có thêm nguồn lực để có thể thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho các DN, đặc biệt là có thêm nguồn lực lớn để thúc đẩy đầu tư công, tạo động lực lan tỏa cho các DN trong các ngành nghề khác cùng phát triển.

Chủ tịch Hội Doanh nhân Sài Gòn Lư Nguyễn Xuân Vũ nhấn mạnh, nhìn rộng ra về bức tranh kinh tế của đất nước, sau 40 năm đổi mới, đất nước ta đã có tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng cao. GDP đã tăng từ 8 tỷ USD năm 1986 lên 510 tỷ USD hiện nay, đứng vị trí 32 thế giới. GDP bình quân đầu người đã tăng từ 100 USD lên trên 5.000 USD, vào nhóm thu nhập trung bình cao.

Chúng ta đã tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi và kinh tế vĩ mô ổn định. Như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh tại báo cáo tóm tắt về kết quả phát triển kinh tế – xã hội ở phiên khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, kết quả đạt được của năm 2025 và giai đoạn 2021-2025 là rất đáng trân trọng, tự hào; năm sau tốt hơn năm trước, nhiệm kỳ này tốt hơn nhiệm kỳ trước trên hầu hết các lĩnh vực. Kết quả đó tiếp tục tạo đà phát triển nhanh, bền vững; tạo lực phát triển bao trùm, toàn diện; tạo khí thế bước vào kỷ nguyên mới và củng cố, tăng cường niềm tin vững chắc của cộng đồng, người dân và DN vào Đảng, Chính phủ.

Phát triển hạ tầng chiến lược gắn với logistics hiện đại – động lực tăng trưởng mới

Ông Đỗ Xuân Quang, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam cho rằng, trong 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, nhiệm vụ “tập trung đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng chiến lược” mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là động lực thúc đẩy tăng trưởng trước mắt mà còn là nền tảng để Việt Nam bứt phá về năng lực cạnh tranh, hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ông Quang cho rằng việc triển khai các dự án hạ tầng chiến lược cần được nhìn nhận và hành động trong mối liên kết tổng thể: Hạ tầng giao thông – Logistics – Chuỗi cung ứng – Thương mại điện tử – Xuất nhập khẩu.

Việt Nam đang có cơ hội lớn để hình thành mạng lưới giao thông hiện đại, liên thông giữa các vùng, miền. Tuy nhiên, để hạ tầng thực sự phát huy hiệu quả, cần đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông theo hướng đa phương thức: Kết nối đồng bộ giữa đường bộ, đường sắt, hàng hải, hàng không và đường thủy nội địa.

Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam cho biết, trước hết, cần đẩy nhanh kết nối đường bộ và đường thủy tới các cảng lớn như Cái Mép – Thị Vải, Cần Giờ, Long An; đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư kho bãi, trung tâm phân phối, kho lạnh xuất khẩu nông sản. Việc hoàn thiện hạ tầng kết nối giữa sân bay Long Thành, Tân Sơn Nhất và các cảng biển lớn sẽ tạo trục vận tải “đa phương thức vàng” thúc đẩy xuất nhập khẩu, giảm chi phí logistics toàn chuỗi.

Ông Đỗ Xuân Quang, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam 

Nguồn lực đầu tư cho hạ tầng chiến lược là rất lớn, vì vậy cần đẩy mạnh hợp tác công – tư (PPP), khuyến khích các tập đoàn trong và ngoài nước tham gia đầu tư, khai thác và vận hành theo cơ chế minh bạch, hiệu quả.

Song song đó, cần chuyển đổi mạnh mẽ sang logistics số – ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong quản lý vận tải, quản lý kho bãi và giám sát luồng hàng hóa. Bộ, ngành Trung ương cùng các địa phương nên sớm triển khai cơ sở dữ liệu logistics quốc gia, kết nối thông tin giữa cảng, hải quan, doanh nghiệp và khách hàng. Điều này không chỉ nâng cao năng suất mà còn giảm đáng kể thời gian và chi phí thông quan, vận chuyển.

Ông Quang cũng cho rằng, để vận hành hạ tầng hiện đại, Việt Nam cần nguồn nhân lực logistics chất lượng cao – hiểu công nghệ, am hiểu thị trường, có kỹ năng quản lý chuỗi cung ứng toàn cầu. Song hành với đó là hoàn thiện thể chế logistics hiện đại, sửa đổi, đồng bộ hóa các quy định liên quan đến vận tải, kho bãi, thuế, phí, hải quan, đảm bảo tính minh bạch và nhất quán giữa các phương thức vận tải. Đây là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư lâu dài.

Nếu triển khai đồng bộ các giải pháp trên, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu trở thành trung tâm logistics của khu vực Đông Nam Á trong 10 năm tới. Một hệ thống hạ tầng chiến lược hiện đại, kết nối đa phương thức, vận hành bằng công nghệ số và được hỗ trợ bởi nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ không chỉ giúp giảm chi phí logistics mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu bền vững.

Đổi mới đào tạo theo chuỗi giá trị: Chìa khóa cho 100.000 kỹ sư bán dẫn và “Bình dân học vụ số”

ThS. Đoàn Ngọc Duy, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen cho biết,tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có chỉ đạo xác định hai nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược: Đào tạo 100.000 kỹ sư bán dẫn và trí tuệ nhân tạo đạt chuẩn quốc tế, đồng thời triển khai chương trình “Bình dân học vụ số” nhằm nâng cao năng lực số toàn dân. Đây là những mục tiêu quan trọng, đặt ra yêu cầu cấp thiết về phương thức đào tạo, cơ chế phối hợp và thước đo kết quả bằng năng suất thực tế.

Từ góc độ quản lý giáo dục đại học, mục tiêu 100.000 kỹ sư bán dẫn và trí tuệ nhân tạo là khả thi nếu cách tiếp cận được chuyển từ “dạy theo ngành” sang “dạy theo chuỗi giá trị công nghiệp”. Với bán dẫn và AI, chuỗi giá trị trải dài từ khâu thiết kế trên phần mềm chuyên dụng, thiết kế có tính đến khả năng kiểm tra, vận hành hệ thống đo kiểm tự động, đến lắp ráp, kiểm tra cuối cùng và đóng gói để đưa chip vào sản phẩm hoàn chỉnh. Khi cấu trúc chương trình theo bốn nhóm kỹ năng này, sinh viên nhìn rõ “điểm đến nghề nghiệp” và cơ sở đào tạo có thể bố trí lộ trình thực học – thực làm.

 

ThS. Đoàn Ngọc Duy, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen 

Để hiện thực hóa tầm nhìn của Chính phủ, các trường đại học cần chủ động kết nối doanh nghiệp và đối tác công nghệ hàng đầu xây dựng chương trình gắn kết chặt chẽ với nhu cầu sản xuất và yêu cầu xã hội. Việc các cơ sở giáo dục đại học, trong đó có Trường Đại học Hoa Sen, chủ động đồng hành với doanh nghiệp và cơ quan quản lý sẽ giúp rút ngắn khoảng cách từ tầm nhìn tới năng suất, đóng góp trực tiếp cho mục tiêu tăng trưởng nhanh, bao trùm và bền vững.